Thân và tâm của mình đều có khả năng bệnh. Sống giữa cõi Ta-bà này thân tâm thường xuyên tiếp xúc với những độc tố nên bệnh là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, bệnh của thân tâm cũng tùy cơ địa, khả năng đề kháng của từng người và môi trường sống của người đó có trong sạch hay ô nhiễm…
Có nhiều loại bệnh trong thân tâm. Riêng, với bệnh của thân thì y học đã và đang khám phá, nghiên cứu chữa lành thân bệnh cho rất nhiều người (nếu phát hiện sớm, điều trị đúng cách…). Bệnh của tâm cũng đã được các nhà hiền triết tìm hiểu, nhận diện và đề xuất nhiều phương pháp trị liệu để tâm được an, để đời sống tinh thần của con người được lành mạnh.
Tâm an chính là mong muốn của tất cả mọi người, cũng như mong ước cố hữu về thân thể khỏe mạnh, cường tráng, dẻo dai. Tuy nhiên, mong muốn là một chuyện còn biến mong ước ấy thành hiện thực trong khả năng của từng người lại là một chuyện khác. Đôi khi ta mong ước thân khỏe-tâm an nhưng mình lại không bao giờ tập luyện thể dục, lao động quá sức, ăn uống không tiết chế, suy nghĩ ấu trĩ, tham lam, sân giận… đầy đủ cả thì mong ước ấy cũng chỉ là ước mơ xa vời vợi. Trong đôi mắt của nhà Phật, mọi ước mong không thể là mong ước suông mà nó phải được hình thành trên cơ sở thực tế (phải có nhân, duyên) thì ước mong ấy mới thành hiện thực (kết quả).
Bạn ước mong làm ca sĩ, được nổi tiếng nhưng bạn lại chẳng biết hát hò một tẹo nào, hoặc biết một cách không chuyên lại không chịu đầu tư khổ luyện, không đủ tự tin bước lên sân khấu thì bạn không bao giờ trở thành ca sĩ được. Phải có chánh nhân để cho ra một kết quả thực tế. Cũng như ước mong mình an lạc thân tâm thì mình phải biết chánh nhân đưa tới an lạc là gì? Đương nhiên là ăn uống điều độ, tiết chế, là luyện tập thể dục thể thao đều đặn, là nghĩ, nói, làm những điều tốt đẹp, thiện lành, mang lại an lạc cho người khác, loài khác. Bạn muốn mình khỏe mạnh mà bạn lại đi tước đoạt mạng sống loài khác, người khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thì làm sao mà mình khỏe (biểu hiện thực tế) cho được. Không chừng, mong ước vô lý ấy lại làm mình thêm đau đớn, khổ sở vì nó không thể thành hiện thực – nỗi khổ của thất vọng, cầu mà không đạt. Hơn nữa, khi mình tước đi sức khỏe, mạng sống của loài khác, người khác cũng đồng nghĩa với tước đi sự an vui nơi mình.
Cũng bởi lòng tham (tham ăn) hoặc sân giận và si mê mà mình tước đi mạng sống, đánh đập loài khác, người khác… và mình đã tạo chánh nhân bất an trong mình. Bất an là bệnh, thứ bệnh lý của tâm đến từ chánh nhân mình đã tạo trong quá khứ hoặc hiện tại. Mình phải nhận diện được điều này để quay lại loại trừ chánh nhân gây ra bệnh lý bất an, lo lắng, sợ hãi… trong mình.
Hoặc, cũng vì tham sân si mà mình đã cạnh tranh không lành mạnh với đồng nghiệp, đối tác, sử dụng chiêu thức, thủ đoạn, nói xấu… nên mình đã tạo ra oán đối với nhiều người. Áp bức và làm cho họ không còn đất sống đến nỗi ôm hận mà trả thù mình tức khắc hoặc bỗng trở nên tha hóa và gây ra những hệ lụy đau lòng cho cộng đồng… Với chánh nhân như vậy mình sẽ không thể an nổi, không thể hanh thông trong công việc và cuộc sống được.
Tham sân si, ba món độc này có mặt trong mình và được biểu hiện từ tế đến thô, nó tàn phá thân tâm mình rất nhiều nếu mình không nhận diện được nó, không làm chủ được bản thân, để nó sai sử mình hết nghĩ đến nói, đến làm những chuyện trời ơi đất hỡi. Đạo Phật xác định đấy chính là nguyên nhân của các khổ. Tuy nhiên, hạt giống này ai cũng có, nhưng mỗi người lại có những biểu hiện khác nhau tùy sự hiểu biết về nó, hiểu về nhân quả cũng như những nguyên lý khác của cuộc sống như vô thường, vô ngã… như thế nào? Nếu được trang bị nhiều phương pháp để giải trừ ba món độc đó càng nhiều và ứng dụng càng khéo léo, càng thuần thục thì người ấy càng có nhiều hạnh phúc.
Người hiểu rõ cuộc sống vô thường, thành trụ hoại không là điều tất nhiên nơi cõi Ta-bà này thì họ sẽ không cay cú đến mức đánh mất sự sáng suốt của mình, bằng mọi giá để giữ lại những cái khi nó đã đến lúc phải mất (hoại). Và họ sẽ nhanh chóng thoát ra khi nó biến đổi, không quá đau khổ trước những chuyển giao quyền lực hoặc sự già đi của chính mình. Họ nghĩ được vậy, sống được vậy thì cuộc sống của họ trôi qua rất nhẹ nhàng, rất bình an dẫu những biểu hiện của họ cũng tương tự như bao nhiêu người khác, cũng già bệnh chết, cũng mất mát chia lìa… Do vậy, đôi khi, sự biểu hiện là tương tự nơi hai người nhưng tùy thuộc vào cái thấy (sự hiểu biết, trí tuệ) của mỗi người mà họ đau đớn ít hay nhiều, hoặc không có một cảm thọ đau đớn nào. Cũng vì thế mà ngay từ đầu, ta nhận diện sự thật của điều kiện bệnh lý trong thân tâm mình là do sức đề kháng của từng người. Mà sức đề kháng có từ đâu? Từ việc trực tiếp tiêm vắc-xin (thực tế là một loại vi-rút đã được làm yếu đi, không có khả năng gây bệnh, nhưng khi nó tiêm vào cơ thể thì sẽ làm cơ thể tạo ra kháng thể nội sinh) hoặc do mình đã trải nghiệm và vượt qua. Câu thơ “Không khổ đau lấy chi làm chất liệu” mang ý nghĩa như vậy, chính nó là chất liệu hay cũng là xúc tác làm cho tâm hồn trở nên mạnh mẽ, vững chãi hơn. Ai vượt qua bão giông rồi thì khi gặp giông bão sẽ biết cách ứng phó, không gục ngã.
Môi trường sống cũng rất quan trọng. Ông bà mình rút ra một điều rất hay rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, chính là nói đến tầm quan trọng của môi trường trong việc hình thành nhân cách của một ai đó. Câu chuyện bà Mạnh mẫu ba lần chuyển trường cho con vì trường gần những điểm đen, dễ làm vấy bẩn tâm hồn con là vì bà nhận ra môi trường có khả năng làm một tâm hồn trở nên trong sáng hay lấm lem. Mình phải chọn môi trường tốt, người tu cũng cần môi trường tốt để học hỏi, hành trì, bởi năng lượng đó sẽ giúp mình vững chãi hơn, nâng đỡ mình tốt theo. Trong một bài sám, có ý đó, rằng người tu thì phải “trưởng ngộ minh sư, chánh tín xuất gia”. Thầy giỏi và bạn lành là môi trường để mình dưỡng nuôi Bồ-đề tâm lớn dậy, không làm mất đi hoặc thành… “bồ-đề gai” như cách gọi vui của mọi người khi gặp phải một người tu, Phật tử nào đó cứ suốt ngày sân giận tham si…
Tham sân si được tồn tại dưới dạng hạt giống trong tâm, và tùy môi trường, tùy sự hiểu biết của từng người mà biểu hiện trong đời sống của người ấy thông qua suy nghĩ, lời nói cùng hành động. Một người tham nhiều sẽ tìm cách chiếm đoạt của người, làm việc quá sức đến mức phải tử nạn… Và điều đó biểu hiện cụ thể nơi mỗi người, nếu họ không nhận ra thì sẽ nguy hại cho thân tâm của mình về sau. Tham ái quá lớn thì mình cũng hại mình mất nhân cách khi cứ mãi chạy theo sắc dục, hại người, hại mình… Tất cả vì trong mình có tham sân si. Người biết đạo Phật thì sẽ không dưỡng nuôi ba món độc này, sẽ tu chỉnh bản thân ngày một trong sáng, tốt lên, đến lúc không còn lệ thuộc, không còn bị chi phối bởi những phiền não này, gọi là giải thoát. Còn người không biết lời Phật dạy, hoặc biết mà không tin thì sẽ biến mình thành con thiêu thân, lao vào lửa đỏ (sẽ chết) nhưng lúc lao vào ấy cứ nghĩ mình đang đi tìm hạnh phúc. Người cố tạo ác nghiệp là bởi vì không nhận thấy nhân quả, không thấy hạnh phúc và an lạc thực sự được tạo ra nhờ từ bi hỷ xả cùng với những ý nghĩ, lời nói, hành động chơn chánh…
Phải nhận diện điều đó một cách căn cơ, thật thà để đi tới giảm thiểu và loại bỏ những hạt giống ấy, từng bước, bắt đầu bằng gọi tên nó, thuần hóa nó, chuyển biến nó theo đường hướng lành tốt. Ai cũng có khả năng này khi mình chịu đặt mình vào vị trí một bệnh nhân và đồng thời là bác sĩ. Mình là bệnh nhân (khi mình mê) nhưng khi mình ngộ thì mình sẽ trở thành lương y, lương y trị bệnh cho mình và trị cho cả người khác. Và một minh chứng rất cụ thể từ mình sẽ sống động, để người ta tin là với phương pháp đó (của Phật) sẽ hết bệnh – gọi là thân giáo, thì lo gì người ta không làm theo, bởi bệnh của chúng sinh thì có một, đều do tham sân si gây ra cả thôi! Ý thức tự độ, độ tha cũng là vì vậy, khi mình đã thấy con đường, mình phải đi, phải thể nghiệm để chứng minh, chắc chắc mình thành công với phương pháp ấy, người ta cũng sẽ đi theo, bởi có ai đang khổ đau, đang bệnh mà không muốn hết bệnh, không muốn dứt khổ đâu?
Một câu hỏi quan trọng nằm chôn vùi dưới kinh nghiệm của chúng ta, cho dù chúng ta biết đến nó hay không biết, đó là : Cuộc sống có ý nghĩa gì không ?
Tôi có nghĩ về điều nầy và muốn được chia xẻ với mọi người những gì tôi nghĩ, với hy vọng là những điều nầy có thể đem lại ích lợi thiết thực cho những ai đọc qua bài này.
Tôi tin rằng ý nghĩa của cuộc sống là hạnh phúc. Từ lúc sanh ra đời, mỗi người trong chúng ta đều muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Không một điều kiện xã hội hay giáo dục, hoặc một lý tưởng nào có thể làm lệch lạc sự mong muốn này.
Tôi tin rằng ý nghĩa của cuộc sống là hạnh phúc. Từ lúc sanh ra đời, mỗi người trong chúng ta đều muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Không một điều kiện xã hội hay giáo dục, hoặc một lý tưởng nào có thể làm lệch lạc sự mong muốn này.
Từ trong tâm thức của con người chúng ta, tất cả đều muốn được an vui, hạnh phúc. Tôi không biết vũ trụ với vô số tinh tú, ngân hà và thế giới có ý nghĩa gì sâu sắc hay không; nhưng ít nhất, chúng ta cũng thấy rõ rằng con người sống trên trái đất nầy có nhiệm vụ làm cho cuộc sống của mình hạnh phúc. Vì vậy, điều quan trọng là khám phá ra điều gì sẽ mang lại hạnh phúc nhiều nhất.
Làm thế nào để đạt hạnh phúc
Hãy bắt đầu chia hạnh phúc và khổ đau làm hai phần chánh : Tinh thần, và thể xác. Trong hai phần nầy, tinh thần có ảnh hưỏng nhiều nhất nơi chúng ta.
Trừ khi chúng ta bệnh nặng hoặc bị đói khát, cơ thể chúng ta chỉ là phần phụ thuộc trong cuộc sống này. Nếu cơ thể tráng kiện, chúng ta không hề để ý đến nó. Tinh thần thì khác, nó ghi chú mọi việc, dù nhỏ nhặt đến đâu. Vì vậy chúng ta phải hết lòng cố gắng làm sao cho tinh thần mình được an lạc.
Trong kinh nghiệm giới hạn của tôi, tôi thấy rằng sự an lạc tột cùng là khi chúng ta làm tăng trưởng tình thương và lòng từ bi.
Lúc mà ta lo cho hạnh phúc của mọi người, là lúc mà chính ta đang hưởng hạnh phúc. Làm tăng trưởng lòng từ một cách tự động, là làm cho tinh thần được bình an. Điều nầy giúp ta dẹp sợ hãi và lo lắng, và giúp ta sẵn sàng đối phó với những trắc trở của cuộc đời. Đây là sự thành công tối hậu trong cuộc sống.
Khi mà ta còn sống trong thế giới nầy, là ta vẫn còn có vấn đề. Trong trường hợp gặp khó khăn, nếu chúng ta đánh mất hy vọng và trở nên chán nản, thì ý chí phấn đấu của chúng ta sẽ bị giảm đi. Ngược lại, nếu chúng ta nhớ rằng mọi người chung quanh đều phải trải qua đau khổ, thì cái nhìn thực tế này sẽ làm tăng ý chí và khả năng của chúng ta, để chúng ta đối phó với nghịch cảnh.
Thật ra, với thái độ nầy, mỗi khó khăn gặp phải, được xem như là một cơ hội ngàn vàng để chúng ta làm tăng trưởng phần tinh thần của chính mình.
Do đó, chúng ta phải tranh đấu dần dần để trở nên từ bi hơn, như vậy chúng ta mới có thể phát triển tình thương và giúp đỡ những ai đang đau khổ. Kết quả là sức mạnh nội tâm và sự thanh thản của chúng ta được tăng lên.
Chúng ta cần Tình thương
Lý do tại sao tình thương và lòng từ bi được xem như là điều hạnh phúc nhất, bởi vì trong tâm khảm mỗi chúng ta đều mong muốn được thương yêu. Tình thương rất cần thiết cho sự sinh tồn của con người. Đó là mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau rất sâu sắc giữa con người với con người. Không cần biết là người đó có khả năng như thế nào và cho dù người đó có giỏi đến đâu đi nữa, kẻ đó cũng không thể sống sót nếu chỉ có một mình. Một người có thể khỏe mạnh, tráng kiện đến mức tối đa trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng một khi ngã bệnh hay lúc quá nhỏ, hoặc quá già, ta vẫn phải cần sự giúp đỡ của những người chung quanh .
Sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau là điều căn bản của luật tạo hóa. Không phải chỉ có loài người , kể cả những côn trùng nhỏ bé nhất, không có tôn giáo, hay luật lệ, chúng vẫn phải nương tựa vào nhau để mà được sống còn. Cả đến hiện tượng vật chất nhỏ bé nhất cũng phải bị chi phối bởi luật " phụ thuộc lẫn nhau" (interdependence).
Những hiện tượng trên trái đất như : mây, biển, rừng, hoa lá cũng được cấu tạo bởi những năng lượng phụ thuộc lẫn nhau. Không có những năng lượng nầy, thì chúng tan hoại ngay.
Bởi vì đời sống của con người là phụ thuộc lẫn nhau, cho nên đây là một điều tự nhiên khi ai ai cũng cần tình thương. Vì vậy chúng ta cần ý thức trách nhiệm của mình trong việc đem lại an vui cho mọi người.
Bởi vì đời sống của con người là phụ thuộc lẫn nhau, cho nên đây là một điều tự nhiên khi ai ai cũng cần tình thương. Vì vậy chúng ta cần ý thức trách nhiệm của mình trong việc đem lại an vui cho mọi người.
Nên hiểu rằng những thiếu thốn hay đau khổ của con người là thuộc về phần tinh thần vì thế chúng không thể giải quyết được bằng máy móc tinh vi, vì vậy thật là một điều sai lầm khi ta tìm kiếm hạnh phúc bằng những thứ bên ngoài.
Chúng ta nên nhìn lại để tìm kiếm cho đúng thứ mà ta cần cho hạnh phúc.
Nếu bỏ qua câu hỏi rắc rối về tạo hóa và sự tiến triển của vũ trụ, chúng ta ít ra cũng đồng ý rằng mỗi chúng ta là một sản phẩm của cha mẹ chúng ta. Thông thường, mỗi chúng ta có mặt nơi đây là vì cha mẹ chúng ta muốn nuôi dưỡng một đứa con cho đến lúc nó trưởng thành và có thể tự lập. Vì vậy, ngay từ phút đầu thọ thai, tình thương của cha mẹ dành cho chúng ta bắt nguồn từ lúc đó.
Hơn nữa chúng ta hoàn toàn nương tựa vào sự săn sóc của mẹ chúng ta ngay từ lúc ban đầu. Theo các khoa học gia, tinh thần của người mẹ trong lúc mang thai có ảnh hưởng rất nhiều đến đứa trẻ trong bụng.
Sự thể hiện tình thương cũng rất quan trọng lúc đứa trẻ ra đời. Ngay từ buổi đầu việc đầu tiên chúng ta làm là tìm vú mẹ, chúng ta tự nhiên thấy gần với mẹ, và mẹ chúng ta phải cảm nhận được tình thương đó bà mới có thể lo bú mớm cho chúng ta m ột cách tốt đẹp; nếu bà cảm thấy tức giận hay bực tức thì sữa sẽ chảy không đều.
Kế đến là lúc tuổi khoảng 3 hay 4, đây là khoảng thời gian rất quan trọng cho việc phát triển bộ óc; trong lúc này, sự gần gủi săn sóc rất cần cho sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Nếu đứa trẻ không được ôm vào lòng, không được trìu mến thương yêu thì sự phát triển của bộ óc đứa trẻ sẽ bị hư hao hoặc kiếm khuyết.
Đứa trẻ không thể sống sót nếu không có sự chăm nom của người khác, vì vậy tình thương là món ăn cần thiết để nuôi dưỡng trẻ. Hạnh phúc của tuổi ấu thơ, đều nhờ vào tình thương, nhờ có tình thương, mà đứa trẻ dẹp được những nỗi lo sợ và trưởng thành một cách lành mạnh.
Hiện tại có bao đứa trẻ lớn lên trong những gia đình không hạnh phúc. Nếu chúng không được thương yêu trọn vẹn, thì sau nầy chúng ít khi nào thương được bố mẹ chúng, và thường thì, những đứa trẻ nầy không hiểu được thế nào là thương người khác. Thật là đáng điều đáng buồn!
Khi đứa trẻ lớn lên và đến trường, chúng cần sự nâng đỡ nơi thầy, cô. Thầy, cô không phải chỉ có truyền đạt kiến thức mà còn phải chịu trách nhiệm về việc chuẩn bị cho đứa trẻ bước vào đời. Học sinh phải cảm nhận được sự tin cậy, và kính trọng, những gì chúng học được nơi thầy cô sẽ là một dấu ấn khó phai.
Ngược lại, nếu thầy cô chỉ lo dạy về môn học mà không để ý gì đến tánh tình, hạnh kiểm của học sinh thì thầy cô đó khó có thể dạy học lâu dài , họ chỉ có thể dạy trong một thời gian ngắn thôi .
Cũng như khi một người bệnh, gặp bác sĩ tận tâm, niềm nở, nhất là sự mong muốn họ mau khỏi bệnh, nhờ vậy họ cảm thấy thoải mái với sự ân cần của y sĩ , người nầy sẽ dễ dàng khỏi bệnh. Ngược lại, nếu bác sĩ giỏi nhưng không tận tâm, không ân cần, niềm nở, dù thuốc hay, nhưng vì bệnh nhân không thoải mái nên việc lành bệnh cũng không mau chóng.
Kể cả khi chúng ta nói chuyện thường ngày, nếu có người nói chuyện ân cần, thân mật, thì tức khắc chúng ta cảm thấy muốn nghe, và muốn tiếp chuyện; câu chuyện sẽ trở nên hấp dẫn hơn, cho dù đề tài không hay. Ngược lại, nếu một người nói chuyện lạnh nhạt hay trả lời nhát gừng, chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu và muốn mau mau kết thúc câu chuyện. Từ việc nhỏ cho đến việc lớn, hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tình cảm và sự quan tâm của người chung quanh.
Kể cả khi chúng ta nói chuyện thường ngày, nếu có người nói chuyện ân cần, thân mật, thì tức khắc chúng ta cảm thấy muốn nghe, và muốn tiếp chuyện; câu chuyện sẽ trở nên hấp dẫn hơn, cho dù đề tài không hay. Ngược lại, nếu một người nói chuyện lạnh nhạt hay trả lời nhát gừng, chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu và muốn mau mau kết thúc câu chuyện. Từ việc nhỏ cho đến việc lớn, hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tình cảm và sự quan tâm của người chung quanh.
Vừa rồi, tôi có gặp những khoa học gia ở Mỹ, họ bảo là mức độ về bệnh tâm thần ở đất nước họ đã tăng khoảng mười hai phần trăm trong dân số. Trong buổi bàn cãi, chúng tôi nhận ra rằng bệnh tâm thần không phải do thiếu thốn vật chất mà ra, mà lý do chánh là vì thiếu tình thương, thiếu tình thân ái giữa con người với con người.
Qua những gì tôi viết trên đây, một điều chắc chắn rõ ràng là : cho dù chúng ta có nhận thức được hay không về điều nầy, sự cần thiết tình thương đã nằm sẵn trong huyết quản của chúng ta ngay từ buổi ban đầu. Người lớn và trẻ em đều hướng đến tình thương, cho dù tình thương đó được mang đến từ một con vật hay từ một người mà bình thường ta vẫn xem như là thù địch.
Tôi tin rằng không một ai sanh ra mà không cần tình thương. Vài trường Triết đã công nhận rằng con người không phải chỉ thuần là thể xác. Tinh thần là chủ động trong việc cảm nhận được cái đẹp, cái quý giá, làm cho chúng ta có thể thương yêu.
Phát triển lòng từ
Vài người bạn của tôi nói rằng, tình thương và lòng từ bi rất tốt đẹp và kỳ diệu, nhưng chúng không có chỗ đứng trong thế giới của chúng ta, nơi mà lòng sân hận và thù hằn là một phần của con người, và như vậy chúng ta luôn bị sân hận làm chủ. Điều nầy tôi không đồng ý.
Con người chúng ta hiện hữu với hình hài nầy trong khoảng gần một trăm ngàn năm. Tôi tin rằng trong khoảng thời gian đó nếu tinh thần chúng ta bị sân hận làm chủ thì dân số của con người đáng lý phải bị giảm đi. Nhưng cho đến hôm nay, dù có những trận chiến, dân số con người vẫn gia tăng hơn bao giờ hết.
Điều nầy chứng tỏ rằng, tình thương và lòng từ vẫn chiếm ưu thế. Vì vậy, những việc không hay là"tin tức", những việc làm từ bi trong đời sống hàng ngày bị coi như là điều tất nhiên, và phần lớn bị lờ đi.
Theo kinh nghiệm của riêng tôi, thì sự thăng bằng về mặt tinh thần và cơ thể mạnh khỏe có liên hệ mật thiết. Sự khích động và tức giận dễ làm chúng ta nhiễm bệnh . Ngược lại, nếu tinh thần yên tịnh và tràn đầy những ý nghĩ tốt lành thì cơ thể ít có cơ hội bị bệnh hoạn tấn công.
Muốn được hạnh phúc chân thật thì cần phải có một tinh thần an lạc, và để được tinh thần an lạc, cần phải có lòng từ bi, làm sao để chúng ta phát triển được lòng từ ? Chỉ nghĩ đến lòng từ bi thôi cũng chưa đủ, chúng ta phải làm sao để chuyển hóa tâm niệm và hành động của mình trong đời sống hàng ngày .
Trước hết, chúng ta phải biết rõ từ bi nghĩa là gì. Lòng từ cũng có nhiều hình thức và lắm lúc lẫn lộn với bám víu và ham muốn. Chẳng hạn, tình thương của cha mẹ dành cho con cái thường có liên quan đến những nhu cầu tình cảm của riêng họ, vì vậy tình thương không được hoàn toàn từ bi. Cũng vậy trong hôn nhân, tình thương giữa hai vợ chồng--nhất là lúc ban đầu, lúc mà cả hai chưa rõ những cá tánh sâu sắc của nhau--tình thương dựa vào bám víu hơn là đơn thuần thương yêu. Vì dục vọng của chúng ta quá mạnh nên người hôn phối dù có tánh xấu, dưới mắt ta lúc bấy giờ người ấy thật là hoàn hảo. Hơn nữa, ta lại có khuynh hướng khuếch trương những điều tốt nho nhỏ. Do đó, khi mà tánh tình một trong hai người thay đổi thì người kia cảm thấy thất vọng vì chính tánh tình họ cũng có đổi thay. Đây là điều cho ta thấy tình yêu được thúc đẩy bởi những nhu cầu của cá nhân hơn là vì thương yêu kẻ khác.
Lòng từ bi chân thật không phải là một thứ tình thương có qua có lại, mà là một sự cam kết chắc chắn dựa trên lý trí. Vì vậy, cho dù kẻ thọ nhận cư xử không tốt, một hành động từ bi thật sự sẽ không hề thay đổi .
Dĩ nhiên là phát triển lòng từ bi chân thật sẽ không phải là một việc dễ dàng. Lúc bắt đầu thực tập, chúng ta nên nhìn vào những điểm sau đây :
Dù người đẹp hay người xấu, người dễ thương hay kẻ phá hoại, chúng ta đều là con người như nhau cả. Và vì là con người nên chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Hơn nữa, mỗi người có quyền tự do riêng để tránh đau khổ và hưởng sung sướng. Bây giờ bạn chấp nhận là tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc, và vì vậy bạn sẽ tự dưng cảm thông được với mọi người và cảm thấy gần gủi họ hơn. Thực tập điều nầy sẽ làm cho tinh thần bạn cảm nhận được tình vị tha, và bạn sẽ phát triển được lòng tôn kính nơi mọi người chung quanh : muốn giúp họ bớt khổ đau. Vì là con người nên ai ai cũng phải trải qua những kinh nghiệm vui, buồn, sung sướng và đau khổ, vì vậy không lý do gì bạn lại không thương được những người có những hành động ích kỷ.
Trong khả năng của chúng ta, để thực tập lòng từ bi, chúng ta phải cần có kiên nhẫn và thời gian. Tận trong tiềm thức của chúng ta, lúc nào cái "Tôi" cũng chiếm ưu thế, và vì cái "Tôi" đó mà lòng từ bị giới hạn. Thật ra lòng từ bi chân thật chỉ được thể hiện khi mà cái "Tôi" bị diệt bỏ. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta không làm chi được, cái gì cũng có bắt đầu, thực tập và tiến triển là điều có thể làm được.
Làm thế nào để bắt đầu
Để bắt đầu, chúng ta phải loại bỏ sân hận. Như chúng ta đã biết, sân hận là những năng lực tình cảm rất mạnh, chúng có thể hoàn toàn áp đảo tinh thần chúng ta. Nhưng chúng ta có thể làm chủ được chúng. Nếu không, chúng sẽ làm cho ta bị điêu đứng và việc tìm kiếm hạnh phúc với một tinh thần thương yêu sẽ khó mà thực hiện được.
Trước hết, hãy khám xét xem cái giận có tốt không. Đôi lúc, khi chúng ta chán nản vì một hoàn cảnh nào đó, cái giận dường như giúp chúng ta mạnh hơn, tự tin hơn và có quyết tâm. Lúc nầy, chúng ta phải kiểm điểm trạng thái tinh thần của mình một cách cẩn trọng. Thật sự cái giận cho ta thêm năng lực, nếu chúng ta khảo sát tỉ mỉ năng lượng của cái giận, ta khám phá ra rằng năng lượng nầy rất là mù quáng : chúng ta không biết được kết quả của nó sẽ là tốt hay xấu.
Bởi vì cái giận che lấp đi phần duy lý của bộ óc. Vì vậy năng lượng của cái giận không thể được tín nhiệm. Nó có sức hủy hoại rất lớn và tạo nên nhiều hành động đáng tiếc.
Hơn nữa, nếu cái giận tăng lên đến mức tối đa, thì một người sẽ trở nên điên loạn, làm những việc có hại cho mình và cho người.
Tuy nhiên, chúng ta có thể phát triển một năng lượng khác cũng mạnh nhưng kiềm chế được để mà thích ứng với hoàn cảnh khó khăn.
Năng lượng nầy có được phát xuất từ cách cư xử với lòng từ bi, sự kiên nhẫn và lý trí. Đây là những thuốc giải hiệu nghiệm cho việc chữa trị cái giận. Đáng tiếc thay, bao người hiểu nhầm về những điều nầy, và cho đấy là biểu tượng của sự hèn nhát, yếu đuối. Tôi thì nghĩ ngược lại : chúng chính là những dấu hiệu cho một sức mạnh nội tâm. Trạng thái tự nhiên của lòng từ bi là sự dịu dàng, hòa nhã, mềm mỏng, nhưng có năng lượng rất mạnh mẻ. Những kẻ dễ tức giận là những người thiếu kiên nhẫn, dễ bất an và không ổn định. Do đó, đối với tôi, sự tức giận là một dấu hiệu của yếu đuối.
Vì vậy, khi vấn đề xuất hiện, nên cố gắng giữ bình tĩnh, với một hành động chân thành cho kết quả được công bằng. Dĩ nhiên là sẽ có những kẻ lợi dụng bạn, khi bạn giữ không bám víu, và hành vi nầy chỉ khuyến khích họ thêm hung hăng, thì bạn phải lên tiếng cho họ biết quan điểm của mình, và nếu cần thì tìm biện pháp để đối phó, nhưng tuyệt nhiên hành động không có sự tức giận hay ác ý ẩn bên trong.
Bạn nên hiểu rằng, cho dù kẻ đối nghịch đang hảm hại bạn, cuối cùng thì hành động nầy cũng chỉ gây hại cho chính họ thôi. Để kiểm soát sự trả đũa của bạn vì íck kỷ, bạn cần phải kêu gọi đến lòng mong muốn thực tập hạnh từ bi, và nhờ đó mà cố gằng giúp đỡ kẻ kia khỏi bị khổ não do chính hành động không hay của họ gây ra.
Hành động trả đũa thường dựa trên năng lực giận dữ với sự mù quáng cho nên sẽ không có kết quả tốt. Vì thế, khi bạn chọn lựa cách đối phó một cách từ tốn, có ích lợi cho cả đôi bên thì kết quả sẽ chính xác, có hiệu lực hơn.
Bạn và kẻ thù
Tôi muốn nhấn mạnh rằng chỉ suy nghĩ về : lòng từ, sự kiên nhẫn sẽ không ích lợi gì nếu bạn không thực tập chúng. Muốn thực tập những điều nầy thì hay nhất là những lúc khó khăn xuất hiện, hãy thử thực tập chúng.
Và ai là người cho ta những cơ hội khó khăn để thực tập? Dĩ nhiên là không phải bạn chúng ta, mà là kẻ thù của chúng ta. Họ là những người gây cho ta nhiều khó khăn nhất. Và nếu ta thật sự muốn học hỏi thì hãy xem kẻ thù như là những người thầy giỏi nhất!
Người thực tập hạnh từ bi và tình thương, cần phải thực tập luôn sự khoan dung, và như vậy thì , kẻ thù không thể thiếu được. Chúng ta phải cảm ơn kẻ thù, vì nhờ họ mà chúng ta phát triển được sự an bình của tinh thần. Thêm nữa, trong những trường hợp thuộc cá nhân hay công cộng có một thay đổi, kẻ thù cũng có thể trở thành bạn.
Người thực tập hạnh từ bi và tình thương, cần phải thực tập luôn sự khoan dung, và như vậy thì , kẻ thù không thể thiếu được. Chúng ta phải cảm ơn kẻ thù, vì nhờ họ mà chúng ta phát triển được sự an bình của tinh thần. Thêm nữa, trong những trường hợp thuộc cá nhân hay công cộng có một thay đổi, kẻ thù cũng có thể trở thành bạn.
Sân hận rất có hại, chúng ta cần phải thực tập để làm giảm bớt năng lực của chúng nơi phần tinh thần, nếu không chúng sẽ tiếp tục làm phiền và gây khó khăn cho ta trong việc thực tập sự an lạc. Sân, Hận là kẻ thù thật sự của chúng ta. Đây là những năng lực mà chúng ta cần phải đối phó.
Thật là tự nhiên khi chúng ta ai ai cũng muốn có bạn. Tôi hay nói đùa là nếu bạn thật sự muốn ích kỷ, thì bạn cần phải nên vị tha. Bạn cần phải giúp đỡ, săn sóc mọi người, lo cho họ, làm bạn với họ, mang lại nụ cười cho họ. Kết quả ?
Khi mà cần sự giúp đỡ, bạn sẽ tìm thấy bao là người sẵn sàng! Ngược lại nếu bạn không lo gì đến hạnh phúc của kẻ khác, sau nầy bạn sẽ là kẻ thua thiệt.
Có người nói tình bạn hay mang đến cãi vã, giận dữ, ganh tyﬠvà tranh dành ? Tôi không đồng ý về điểm nầy. Tôi nhận thấy chỉ có tình thương mới mang lại cho chúng ta những người bạn thân đúng nghĩa.
Trong xã hội vật chất hiện nay, nếu bạn có tiền và có địa vị, thì dường như bạn có rất nhiều bạn. Nhưng họ đâu phải là bạn của bạn, họ là bạn của tiền và địa vị của bạn. Khi mà bạn trắng tay, mất hết quyền lực thì không còn tìm ra những người bạn nầy nữa, họ biến mất.
Thực tế thì khi mọi việc hanh thông, chúng ta cảm thấy tự tin và có thể tự lo, chúng ta cảm thấy mình không cần bạn; nhưng khi địa vị và sức khỏe suy dần, thì chúng ta mới biết là mình lầm. Lúc ấy, ta sẽ biết được ai hữu dụng và ai vô dụng. Và để chuẩn bị cho lúc ấy, để cho có được những bạn tốt, ta cần phải thực tập tình vị tha ngay từ bây giờ.
Tôi hay nói là tôi lúc nào cũng cần bạn, càng nhiều càng tốt, và mọi người hay cười tôi về điều nầy. Tôi yêu những nụ cười. Có rất nhiều nụ cười, nụ cười mai mỉa, nụ cười gỉa tạo, nụ cười ngoại giao. Có những nụ cười không làm chúng ta hài lòng, mà đôi lúc còn làm ta sợ hãi, nghi ngờ, phải không nào ? Nhưng một nụ cười chân thật mang lại cho chúng ta bao là sự vui tươi, và tôi tin là, đây là đặc điểm của con người. Nếu đây là nụ cười mà ta mong muốn thì chính chúng ta phải làm sao để cho chúng được hiện diện.
Tôi hay nói là tôi lúc nào cũng cần bạn, càng nhiều càng tốt, và mọi người hay cười tôi về điều nầy. Tôi yêu những nụ cười. Có rất nhiều nụ cười, nụ cười mai mỉa, nụ cười gỉa tạo, nụ cười ngoại giao. Có những nụ cười không làm chúng ta hài lòng, mà đôi lúc còn làm ta sợ hãi, nghi ngờ, phải không nào ? Nhưng một nụ cười chân thật mang lại cho chúng ta bao là sự vui tươi, và tôi tin là, đây là đặc điểm của con người. Nếu đây là nụ cười mà ta mong muốn thì chính chúng ta phải làm sao để cho chúng được hiện diện.
Lòng từ bi và thế giới
Để kết luận, tôi muốn nói thêm như sau : hạnh phúc cá nhân cũng góp phần không nhỏ trong việc làm cho xã hội con người tốt đẹp hơn.
Bởi vì tất cả chúng ta đều cần tình thương, vì thế khi gặp một người, dù trong trường hợp nào, chúng ta cũng có thể coi người đó như là anh, chị em của ta.
Cho dù đấy là một khuôn mặt mới, cách cư xử, cách ăn mặc cho dù có khác biệt, thật ra không có gì cách biệt giữa ta và người. Những nhu cầu căn bản tự nhiên của mọi người đều giống nhau. Vì vậy thật là điên rồ khi mà chỉ bám vào những khác biệt bên ngoài.
Cuối cùng thì con người chỉ là một và trái đất nhỏ bé nầy là nhà của chúng ta.
Cuối cùng thì con người chỉ là một và trái đất nhỏ bé nầy là nhà của chúng ta.
Để bảo vệ căn nhà của chúng ta, thì mỗi một người trong chúng ta cần phải kinh nghiệm được ý nghĩa của lòng vị tha.
Lòng ích kỷ làm cho ta chỉ biết lừa dối và bạc đãi người khác, muốn diệt trừ tính ích kỷ thì chỉ có cách phát triển tình vị tha. Nếu bạn thành thật và có tấm lòng rộng mở, tự nhiên bạn sẽ cảm nhận được niềm tự tin, hiểu rõ giá trị của chính mình và sẽ không còn sợ hãi nữa.
Tôi tin rằng mỗi giai cấp xã hội -- bình dân, bộ lạc, quốc gia, và ngoại quốc --chìa khóa cho một thế giới hạnh phúc, an lạc là phát triển lòng từ bi. Chúng ta không cần phải theo một tôn giáo nào, hay phải tin vào một lý tưởng gì, chỉ cần mỗi một người trong chúng ta phát triển hết những đức tính tốt của con người là đủ.
Tôi tin rằng mỗi giai cấp xã hội -- bình dân, bộ lạc, quốc gia, và ngoại quốc --chìa khóa cho một thế giới hạnh phúc, an lạc là phát triển lòng từ bi. Chúng ta không cần phải theo một tôn giáo nào, hay phải tin vào một lý tưởng gì, chỉ cần mỗi một người trong chúng ta phát triển hết những đức tính tốt của con người là đủ.
Tôi cố gắng cư xử với những người tôi gặp như một người bạn lâu năm. Điều nầy mang lại cho tôi một niềm vui chân chất. Và đây là lúc để chúng ta tạo một thế giới hạnh phúc hơn, an lạc hơn.
Dalai Lama
Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của Đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học giả người Ðức]
Tiếng chuông chùa trầm lắng trong buổi chiều tà như lời cầu nguyện cho những mảnh ghép của nhiều số phận.
Mỗi thân phận bất hạnh, éo le trắc trở sẽ được an bình nơi cửa phật. Đó cũng chính là thiện nguyện của ngôi chùa Bình An, ở khu Nguyễn Cữu Phú, Phường Tân Tạo A, quận Bình Tân, TP.Hồ Chí Minh.
Những đứa trẻ lớn lên tại chùa Bình An. |
Tiếng cười con trẻ
Đến chùa Bình An trong một buổi chiều, tôi thấy xen lẫn tiếng kinh kệ là tiếng trẻ con vui cười rộn rã khắp một góc sân. Nhìn những đôi mắt trong veo, tinh khôi sáng ngời, mấy ai biết được cuộc đời các em là những phận đời éo le, nghiệt ngã. 27 em sống tại chùa mỗi em mỗi cảnh.
Bé Cuội 3 tuổi, rất đáng yêu, hễ gặp người lạ là cứ sà vào lòng như muốn tìm chút hơi ấm tình thương. Mẹ bé mang bé vào chùa được vài tháng là phải chấp hành án tù vì tội buôn bán ma túy. Mẹ Cuội ra tù cách đây được vài tháng có vào thăm con. Cuội chưa kịp quen hơi mẹ thì mẹ của bé lại phải vào tù thêm một lần nữa.
Với Cuội, người thân yêu nhất không ai khác là các ni cô trong chùa. Đó là những người mẹ đã chăm lo cho các em từng miếng ăn, giấc ngủ vẹn tròn, được hưởng những gì tuổi thơ các em cần có với tình thương bao la.
Bé Nhật được các ni cô nhặt vào lúc tờ mờ sáng năm 2009. Lúc đó nghe tiếng khóc, sư thầy lần tìm ra đầu hẻm, nơi dẫn vào chùa và phát hiện có tiếng khóc trẻ sơ sinh yếu ớt. Nhìn kỹ thì thầy thấy một em bé sơ sinh nằm trong cái giỏ giữa hai... con bò! Sư thầy vội vã bế em bé vào trong ủ ấm và cho uống sữa.
Hiện tại, bé Nhật đang học tại trường mẫu giáo Tân Tạo (Quận Bình Tân). "Hễ đi học thì thôi, còn cứ về tới chùa là bé hát ca líu lo, gặp khách là chắp tay rồi đọc kinh phật làu làu dù giọng còn chưa tròn vành rõ chữ", sư thầy Tùng Tín cho biết.
Theo sư cô Huệ Bình, các em ở chùa Bình An được học hành và vui chơi như bất kỳ trẻ em nào bên ngoài xã hội. Được sự tài trợ của trường anh ngữ Mỹ Việt, các em trong chùa được học tiếng anh miễn phí, một tuần 3 buổi. Khi trưởng thành, các em có quyền lựa chọn hướng đi cuộc đời mình là học theo ngành nghề mình yêu thích, được phép ra đời lập nghiệp chứ không nhất thiết là phải theo con đường tu đạo.
Nỗi niềm mẹ già nơi cửa Phật
Chúng tôi tìm tới khu nhà nơi có 50 cụ già nương nhờ tại chùa. Đây là khu nhà tạm vì chùa đang gấp rút xây dựng khu nhà mới rộng rãi, thoáng mát hơn. ở đây cụ già nhất đã hơn 90 tuổi. Cụ ít tuổi cũng đã ngoài 70.
Nhiều người già tìm đến chùa nương tựa. |
Cụ bà tên Lệ cho biết, đã vào chùa ở hơn 2 năm nay, lúc vào bị liệt toàn thân, không ai chăm sóc. "Cũng may có các sư cô cứu giúp, chữa bệnh châm cứu nên giờ tôi có thể ngồi được, tôi mang ơn chùa lắm", cụ Lệ bộc bạch.
Các cụ vào chùa Bình An mỗi người một số phận nhưng đều nghèo khổ. Có cụ thì không con cháu nuôi dưỡng, cụ thì nghèo quá phải nương nhờ nơi cửa Phật tìm những ngày bình yên còn lại của cuộc đời. Cũng có cụ thì bị con cháu bạc đãi.
Đáng thương nhất là cụ bà tên Năm có nhà cửa hẳn hoi nhưng bị con chiếm mất nhà và đuổi đi. Cùng đường, tủi khổ cụ bà này không biết đi đâu. Rồi có người mách cụ hãy đến chùa Bình An nương tựa. Mới đó mà đã 4 năm cụ ở đây. Ngày ngày nghe tiếng kinh kệ lòng cụ thấy yên bình trở lại để sống nốt phần đời ngắn ngủi còn lại.
Người già thường rất cần người chia sẻ, trò chuyện, thăm nom. Vì vậy khi thấy có đoàn khách tới thăm, các cụ vui lắm, cứ nắm tay người đối diện mà nói chuyện. Câu chuyện không có bắt đầu, chỉ kết thúc bằng câu: "Khi nào rảnh mấy cháu tới thăm bà, bà vui lắm". Có cụ khi kể về hoàn cảnh của mình đã khóc. Miệng cười móm mém cụ Lan cầm quả cam mời phóng viên ăn cho bằng được. Cụ bảo: Các con ăn để bà vui, bà để dành từ hôm qua tới giờ đó!".
Trong 50 cụ hiện tá túc ở chùa Bình An thì hơn nửa là có người thân, nhưng con cháu các cụ chỉ thỉnh thoảng vào thăm rồi gửi chùa ít tiền để đó, ai muốn làm gì thì làm vì họ bận gia đình, bận công việc và có lẽ ngại chăm sóc người già.
Tâm niệm của nhà Phật là từ bi hỉ xả. Bởi vậy đã cưu mang ai, thì nhà chùa thì lo đến tận lúc "nhắm mắt xuôi tay". Vì lẽ đó, mỗi khi cụ nào mất, sau khi làm lễ nơi cửa Phật, các cụ được đem đi hoả táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hoà, hài cốt mang về chùa thờ cúng. Tất cả chuyện hậu vận này, nhà chùa lo hết. Đến nay, đã có hàng chục cụ được quy tụ tại chùa, đêm đêm có người hương khói.
Hàng ngày, cùng với sư trụ trì Tùng Tín, hơn mười sư cô khác luôn tay từ sáng đến tối với công việc làm bánh chưng chay, các thức chay, ớt, củ cải dầm... Đây là nguồn thu nhập chính, duy nhất của nhà chùa, để nuôi dưỡng các cụ bà và cho 27 bé đi học tại các trường công lập.
Những phụ nữ éo le
Trẻ em được nhà chùa chăm sóc ân cần. |
Chùa Bình An còn là nơi tìm đến của những phụ nữ bị bạo hành, khốn khó khi gặp cơn bĩ cực. Nhà đồng đẳng hiện tại có 6 chị em cư trú, có chị phải trốn chồng vào đây ở qua ngày qua tháng vì bị đánh, bị hành hạ. Có chị bị đánh thì vào đây nhưng qua ngày sau lại về nhà và vài bữa bị đánh tiếp rồi lại vào khóc lóc cho số phận! Ni cô Huệ Bình chép miệng "âu cũng là cái nghiệp!".
Chị N.T.A năm nay 24 tuổi, chồng bị tai nạn vừa qua đời khi chị mang thai được 4 tháng. Ba mẹ ly dị từ nhỏ, chị A sống cùng ông Nội và ông cũng không còn. Trong một lần đi khám thai ở bệnh viện Từ Dũ, chị bị kẻ xấu móc hết tiền bạc, A khóc ròng không biết phải làm sao.
Cũng may, chị y tá thấy vậy đưa cho chị địa chỉ ở chùa Bình An và cho ít tiền khuyên chị nên vào đó để được giúp đỡ. Đến nay A đã ở chùa hơn 4 tháng, cái thai trong bụng chị cũng đã hơn 7 tháng. Chị tính sinh em bé xong, gửi lại chùa nuôi, chị sẽ tìm việc làm để tự lo cho cuộc sống của mình. Sư thầy Tùng Tín cho biết khi nào có điều kiện A có thể đến chùa nhận lại con, mẹ con A sum vầy và sống tốt là điều nhà chùa mong muốn và chờ đợi.
Khi vào nhà đồng đẳng, có một chị bận áo nâu sòng cứ nhìn theo chúng tôi cười suốt, cứ tranh thủ lúc nào thấy mọi người không trò chuyện là cầm chùm nho mời ăn. Ni cô Bình cho biết đó là chị T, bị bệnh tâm thần, trước đây không người thân nên phải lê lết đầu đường xó chợ, ăn uống bữa no bữa đói tùy thuộc vào sự giúp đỡ của các chị em tiểu thương chợ Bà Hom. Thấy thương nên nhà chùa mang về cưu mang...
Với sự nỗ lực hết mình nhằm mong muốn mang hơi ấm tình thương đến với những mảnh đời cơ khổ. Chùa Bình An thật sự là nơi an bình cho những mảnh đời bất hạnh.
Nhiều sinh viên, các chị, các mẹ đến làm công quả tại chùa khi có thời gian rảnh với mong muốn góp phần thắp lên ngọn lửa yêu thương cháy mãi. Để nơi đây thật sự là nơi hội tụ của những tấm lòng nhân ái...
Hôm chúng tôi đến, sư thầy và những ni cô tại ngôi chùa này không mở lời cầu mong xã hội, cộng đồng giúp đỡ điều gì, nhưng chúng tôi nghĩ rằng, ngôi chùa này đang cần sự giúp đỡ tinh thần lẫn vật chất của thập phương bá tánh.
Theo: phattuvietnam.netTụng là đọc rõ ràng thành tiếng, có âm điệu ngân nga trầm bổng, theo nhịp mõ tiếng chuông, khi nhặt khi khoan một cách hài hòa đạo vị.
Kinh là những lời dạy quý báu của Đức Phật và của chư thánh đệ tử truyền lại, được kiết tập lại thành pho, thành bộ, có lớp lang mạch lạc, có chủ đề, có nội dung lẫn hình thức của một văn bản hoàn chỉnh, phù hợp với căn cơ trình độ của mọi người và phù hợp vởi chân lý các pháp, với sự thật khách quan của vạn vật. Tùy theo trình độ nhận thức của mỗi người lãnh hội, thể nhập khác nhau mà mang đến những lợi ích lớn nhỏ khác nhau.
Tụng kinh là đọc lại những lời dạy của Đức Phật một cách thành kính tha thiết trong khung cảnh trang nghiêm, thanh tịnh. Những lời Phật dạy là những khuôn vàng thước ngọc, nghĩa lý mầu nhiệm sâu xa. Chúng ta tụng chỉ một hai lần thì không sao lãnh hội hết được, nên cần phải tụng đi tụng lại nhiều lần. Tụng kinh là để ôn lại và nghiền ngẫm những lời đạo đức tốt đẹp, những chân lý cao siêu mà Đức Phật muốn truyền đến mọi người, càng tụng nhiều lần ta tỏ rõ sâu xa hơn, càng thấm thía hơn những lời Phật dạy, tỏ rõ sâu xa hơn những giá trị chân lý của cuộc đời, như cổ nhân đã nói :
Sách xưa chẳng chán trăm lần đọc,
Đọc kỹ suy cùng ý vị sâu.
Tuy nhiên, đọc tụng và tư duy chỉ là phần lý thuyết, điều cốt lõi mà Đức Phật mong muốn ở chúng ta phải nỗ lực tu tập hành trì, tức là đem những lời dạy quý báu của Đức Phật ứng dụng vào đời sống hằng ngày của chúng ta. Do đó, trong mỗi giờ mỗi khắc chúng ta phải kiểm soát và tự điều chỉnh mọi tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi cử chỉ sai lầm của mình, để ba nghiệp lần lần thanh tịnh an lạc giải thoát giác ngộ.
Mặt khác, sự tụng niệm còn có sức mạnh cảm hóa tha nhân, thức tỉnh lòng người, cải tà quy chánh, bỏ dữ làm lành, tách khỏi bến mê, quay về bờ giác. Ngoài những lợi ích thiết thực cụ thể vừa nêu, sự tụng kinh còn có những tác động vô hình, cảm ứng nhiều điều mầu nhiệm lạ thường không thể giải thích được. Cho nên trong các thời khóa tụng niệm. liệt vị tổ sư tiền bối có soạn thêm các lời tán thán, hồi hướng và cầu nguyện.
Tóm lại, sự tụng kinh có nhiều lợi ích to lớn không thể nghĩ bàn, như Tổ Thiên Thai Trí Giả nhờ tụng kinh Pháp hoa mà nhập định, nhiều lần thấy Pháp hội Linh sơn uyển chuyển hiện ra trước mắt, như Đức Lục tổ Huệ Năng khi còn là cư sĩ do nghe thương khách tụng kinh Kim Cang mà minh tâm kiến tánh và hãy còn nhiều vị Tăng Ni cư sĩ trong quá khứ cũng như hiện tại nhờ thọ trì đọc tụng, nghiền ngẫm tư duy những lời kinh tiếng kệ mà ngộ đạo. Do đó chúng ta không nên xem thường các thời khóa tụng niệm, hãy lập nguyện tu hành, chớ có xao lãng.
Cuối cùng, chúng tôi xin được kết thúc bằng hai câu đối của người xưa đã dạy:
Sớm trống tối chuông nhắc nhở khách trần qua biển khổ,
Câu kinh hiệu Phật thúc giục người tục thoát sông mê.
Tỳ kheo Thích Chơn Không.
Nguồn từ PHẬT PHÁP
Em yêu mùa sen nở
Nhớ Gia đình Phật tử
Áo lam cài hoa sen
Thương bầy chim oanh vũ…
(“Nhớ mấy mùa sen”, Trần Thị Diệu Phước, 1963)
Em Oanh vũ nữ với bài thơ dài, “Nhớ mấy mùa sen”, đoạt giải nhất trong cuộc thi viết ngành Oanh của liên Gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế năm 1963, nay đã là bà nội, bà ngoại ở lứa tuổi lục tuần. Đã 47 năm rồi tôi chưa gặp lại em, nhưng bài thơ xưa thì vẫn nhớ. Bài thơ hồn nhiên và trong sáng đượm màu Hoa đạo.
Cái đẹp hình tướng có thể tàn phai, nhưng cái đẹp của tư tưởng thì không phai tàn.
Năm nay…
“Mùa cherry, tôi đi tìm cú…!”
Nếu “cú” đây chẳng phải là cú pháp, là văn chương tuyệt cú mà chỉ là cú vọ, cú mèo, cú tráu… thì không biết cái hồn văn chương thiên cổ có bị phai tàn chăng?
Nhưng dẫu sao thì đó vẫn là sự thật.
Ở xứ Huê Kỳ cái gì cũng có, nhưng lại thiếu một mùa sen ngày Phật Đản.
Những năm qua, người Việt ở Mỹ thường chú ý mùa cherry trùng với mùa Phật Đản trên xứ nầy. Cho nên có nhiều người cho mùa cherry là mùa Quả Phật khi mùa sen nở là mùa Hoa Phật. Mùa Hoa Phật xứ Mẹ và mùa Quả Phật xứ Người.
“Cherry” – tiếng Mỹ có nghĩa là hoa anh đào; mà cũng là trái mận đào. Người Việt ở nước ngoài nói tới trái cherry thì ai cũng biết nhưng nói đến trái “mận đào” thì… hết biết luôn!
Quả mận đào nhỏ như trái bồ quân nhưng có tới 5 màu: Trắng, vàng, đỏ, tím và đen. Nghe nói trái mận đào mang tinh thần hoa đạo. Hoa đạo (Kado) là nghệ thuật cắm hoa truyền thống của Nhật Bản. Lịch sử Hoa đạo xuất hiện từ khi các thiền sư Trung Hoa đem đạo Phật vào đất Nhật từ thế kỷ thứ 6. Mỗi đóa hoa không có tự thể tánh. Hoa phải có sự hợp duyên của thiên nhiên mới thật là hoa: Một giọt sương long lanh, một chút gió phơ phất, một chú bướm vàng lãng đãng, một đôi mắt ngắm tự tâm hồn… thì hoa mới đẹp. Vì thế nghệ thuật Hoa đạo là “hoa trong ta và ta trong hoa” giữa khoảng trời thu nhỏ.
Giống mận đào gần với Hoa đạo vì cũng cần “hợp duyên” như thế. Nghe nói nếu trồng một cây thì thường không có trái; cô đơn ái dục vô tâm khởi, chăng (?!) Nên những tài tử cây kiểng thường ghép cả 3 loại mận đào – vàng, đỏ, tím – vào một cây. Mười năm trước, tôi trồng một cây mận đào ghép như thế ở vườn sau nhà. Chỉ 3 năm sau là cây bắt đầu có trái. Những trái mận đào nhỏ nhắn, mơn mởn chín mọng đủ màu, trĩu quả như những cành hoa. Vị ngọt, hương hiền, pha chút chua chua điểm làm duyên. Tôi thường hái lứa mận đào đầu tiên cúng Phật mà cứ mường tượng như những đóa sen mùa Phật Đản trên quê mẹ ngày xưa.
Năm nay, cây mận đào vườn sau ấy đã cao vượt quá mái nhà. Khu nhà mới Natomas nơi tôi ở, nguyên được xây dựng trên một cánh đồng trống bây giờ đã thành một rừng cây xanh nho nhỏ. Người Mỹ chỉ trồng loại cây có hoa và cây xanh gây bóng mát quanh nhà. Rất ít nhà chịu trồng cây ăn quả vì dân xứ nầy thích ăn cây quả bán ở tiệm, an toàn về mặt vệ sinh hơn là ra vườn hái trái. Nhà nào trồng cây quả, thường để chín rụng đầy vườn, lâu ngày thành rác bẩn.
Cuối mùa Xuân, chim chóc bốn phương từ đâu tụ về. Mới 3 giờ sáng, chim đã bắt đầu ríu rít gọi đàn. Cây mận đào nhà tôi, nhánh nào cũng đầy trái, bỗng trở thành kho lương thực tươi mát cho bầy chim. Mỗi sáng sớm, ra nhìn hột và quả mận đào chim ăn rụng tả tơi trên thảm cỏ, lúc đầu tôi cảm thấy tiêng tiếc nhưng bóng dáng đủ màu và tiếng hót hồn nhiên của bầy chim mang niềm vui bù lại.
Gần Rằm Tháng Tư, trái mận đào chín mọng, chim càng rủ nhau lựa quả ngon, mổ rụng vung vãi càng nhiều. Tình yêu thiên nhiên, chim muông có cánh cửa giới hạn của lòng sở hữu. Ngắt một nhánh hoa vườn người hay đuổi bầy chim ăn quả vườn nhà là mình đang khép lại cuộc ngao du về khóa ngõ nhà mình. Tôi đi tìm con cú; một con cú lộng giả thành chân làm bù nhìn đuổi bầy chim lạm dụng quyền… làm chim không giới hạn. Phải cần một sự dữ dằn, xấu xí hình tướng để xua đuổi hình ảnh hoa bướm của lòng tham.
Suốt mấy ngày anh chủ nhà trong tôi cứ đi tìm hình giả một con cú mèo trông càng dữ dằn, gớm ghiếc hơn cả cú thật càng tốt. Cái nhìn dư ảnh trong tâm và ý nghĩ của tôi chuyển dần từ bầy chim líu lo buổi sớm sang con cú vọ, từ khi tôi đi tìm cú đuổi chim. Vào những hàng bán đồ chơi chim chóc, mắt tôi nhìn vào hình chim muông đủ màu, đủ loại mà chẳng thấy con nào vì chỉ đi tìm con cú. Bắt gặp một dáng vẻ sinh vật dữ dằn nào tôi đều chăm chú nhìn ngắm, nhưng hầu hết chưa đủ “dễ sợ” làm bầy chim sợ hãi. Cả mấy ngày, nhìn đâu tôi cũng mường tượng về con cú lý tưởng của mình. Đó là con cú sẽ làm bầy chim kia kinh hồn bạt vía. Con cú như bến đậu của dòng suy tưởng xua đuổi trong tôi vào lúc này.
Đã đi tìm thì sớm muộn gì cũng sẽ gặp. Theo lời mách miệng của một anh Mỹ đen gặp tình cờ ở Country Mall, tôi vào chợ Ross, tới khu bán hàng trang hoàng ảnh tượng. Những tượng Phật, Chúa, Thánh, Thần, thiên tài, nghệ sĩ… xếp hàng trên giá mờ nhạt. Những muôn thú cây cảnh có như không. Mắt tôi sáng lên với một hình giả con cú làm bằng chất nhựa dẻo được sơn phết nhiều màu nhưng hai màu đen trắng đối chọi níu chặt cái nhìn của tôi vào nó. Tâm tôi đang trên cuộc hành trình tìm cú; ý tôi đang trôi trong dòng tới cú. Nên gặp được thân cú dữ dằn thật là một hạnh phúc. Tôi phấn chấn mua về treo cao chót vót trên cây mận đào. Bên cạnh còn treo thêm một dãy dĩa CD lóng lánh hai mặt cũng theo lời khuyên của người mách nước.
Chim Ka Lăng Tần Già
Sáng đầu tiên vừa mới thức dậy là tôi mở cửa chạy ngay ra vườn sau nhìn con cú treo trên cây mận đào. Con cú phản ánh mặt trời. Dĩa CD bắt nắng loang loáng. Một cuộc phản công hùng tráng vô cùng. Không có bóng một con chim nào liều lĩnh lại gần. Tiếng chim râm ran chỉ còn nghe vọng lại từ phía vườn nhà ai. Mắt cười nhìn con cú đồng minh vểnh cái mỏ quặm nhọn hoắt trên cây nhìn xuống, tôi xoa tay hoan hỷ. Cảm nhận đồng hành. Vừa đúng dịp lễ Phật Đản, tôi hái những trái mận đào to nhất còn sót lại sau cuộc xâm lăng của bầy chim và đơm lên bàn thờ cúng Phật. Khói nhang bay thanh thoát sao tôi cứ mường tượng như dáng hình con cú. Giữa cuộc binh đao, lòng người chiến sĩ nào mà không vương mang mùi thuốc súng!
Những ngày tiếp theo, mỗi sáng tôi đều có dĩa mận đào tươi cúng Phật. Con cú và tôi vẫn gần gũi nhìn nhau mỗi ngày. Tiếng chim xa lắc. Vài con chim sà cánh đậu trên cây; nhớn nhác rồi bay đi. Tôi đã lấy lại được cây cherry. Trái bây giờ chín tới. Sau trận mưa giông, trái rụng, gió lớn thổi bay tứ tán đầy sân. Vắng tiếng chim buổi sớm, buổi chiều làm tôi nhớ. Nỗi nhớ mơ hồ như vọng ra từ góc khuất của lòng mình. Vắng những cánh chim. Cũng đàn chim ấy, nhưng trước đây có vẻ như ranh mãnh, bon chen; sao bây giờ tôi thấy chúng hồn nhiên và thơ dại như bầy oanh vũ ngày xưa. Trên cây mận đào đong đưa với gió chỉ còn con cú. Gió lên, trái rụng. Trên xác lá và trái chín vỡ tan, sáng nay tôi tìm thấy hai tổ chim con rơi xuống. Những con chim non đã chết queo trong tổ. Có lẽ vì mấy ngày qua chim mẹ sợ không dám tới, bỏ đói đàn con.
Con cú, dẫu chỉ là cái mã vô hồn nhưng sao nó vẫn lay động được cảm tính, tâm thức của sự sống. Đàn chim sợ nó như một phản ứng bản năng. Tôi gần với nó vì nó giúp tôi loại trừ được bầy chim mà tôi coi như một đối tượng xâm phạm quyền sở hữu của mình. Chỉ có một điều tôi quên mất. Đó là quyền sở hữu những gì mà tôi trân quý, nhưng có thể chẳng có giá trị gì với người ngoài và cũng chẳng giúp được gì cho ai: Cây cherry, cây mận đào ở Mỹ nhiều lắm; nhưng chẳng ai biết hay quan tâm là cái mô tê gì ở Việt Nam và nhiều xứ khác. Với tôi, cây mận đào làm hoa trái cúng Phật trong mùa Phật Đản là một duyên lành ở xứ người. Tôi thường loay hoay tìm Phật tận đâu đâu ở khu vườn Lâm Tỳ Ni, ở cung trời Đâu Suất nhưng lại quên “ông Phật” trong tôi mà chính đức Phật từ hơn 2500 trước đã thọ ký cho mỗi chúng sinh về sau. Con cú cứ ám ảnh cái nhìn, cái nghĩ của tôi như một ý nghiệp mây mù thiếu mầm độ lượng. Tôi phải từ bỏ nó để trở lại với chính mình.
Rũ sạch định kiến và sự ám ảnh thật không đơn giản. Mấy chú chim con chết trong tổ ám ánh tôi không dứt. Phù du và bé bỏng thế thôi, nhưng mỗi hạt cát đều có quyền sống riêng của nó. Nói chi tới lòng Từ Bi cho to tát. Chỉ nói tới tình thương nhỏ bé đối với bầy chim cũng đã cần tới cái tâm không khóa, không gài. Tôi lặng lẽ bẻ khóa như một lời cầu nguyện. Rồi tôi trả lại con cú cho nhà hàng Ross – một con cú giả mặt mày còn nguyên vẹn – lấy lại chút tiền còm giúp quỹ trẻ mồ côi. Đàn chim lại trở về. Tiếng hót đánh thức tôi ngồi uống trà để viết những dòng nầy khi trời chưa sáng.
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa – một vị Phật tương lai – ra đời.
Từ ấy, hoa Mạn Đà La thành biểu tượng của Hoa đạo. Nghìn năm sau, hoa Mạn Đà La là loài hoa “hình vô hình hình, tướng vô tướng tướng” của tâm tưởng khi hướng về đức Phật. Bao tấm lòng thực tế tìm hoa. Bao tâm hồn mơ mộng nghĩ về hoa.
Trong kinh Phật thường thấy xuất hiện nhiều loài hoa trong thời thuyết pháp của Phật như: Mưa hoa Mạn Đà La (Mandàrapushpa), Mạn Châu Sa, Mạn Thù Sa, Ma ha Mạn Đà La, Ma ha Mạn Thù Sa. Người ta cho đó là những loại Hoa Trà (Camelia); mà sinh tộc hoa trà thì có hàng trăm loại. Và cũng từ ấy, những tâm hồn mang khuynh hướng tiếp cận với sự huyền nhiệm của tâm linh đất trời không ngớt rải hoa và quét hoa xung quanh những tượng đài Phật giáo.
Trong bao nhiêu lần lễ hội Phật giáo, nhất là những lần lễ hội quanh tôn tượng đức Quán Thế Âm, người ta không ngớt cãi nhau về mây ngũ sắc, về hoa Mạn Đà La rãi xuống trần gian từ giữa khung trời phiêu linh vô tướng. Kẻ “thấy” thì cho đó là phép mầu huyền nhiệm. Người “không” thì cho đó là một ám ảnh mang tính chất mê tín dị đoan. Bậc “vô tướng vô tâm” thì mỉm cười thinh lặng. Người đời sống chết với tình yêu nhưng chẳng ai vẽ được chân dung một Tình Yêu có thật.
Và nữa, hoa nở chim kêu. Những loài chim ẩn hiện trong kinh Phật như Oanh Vũ, Anh Lạc, Cộng Mạng, Ka Lăng Tần Già vẫn thường xuyên xuất hiện. Bóng dáng cùng tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp nở những mầm hoa hạnh phúc. Nhiều người đã cất công lặn lội qua Ấn Độ, vượt sông Hằng tìm về đất Phật. Dấu tích ngày xưa đã thành hoang phế. Còn chăng những phế tích được tôn tạo lại như những biểu tượng. Người tìm về đất Phật chỉ còn được kể lại rằng, Ka Lăng Tần Già là một loài chim thuộc giống chim sẻ Ấn Độ. Loài chim ấy ẩn cư trong suốt mùa Hè nóng như thiêu đốt của xứ Ấn và khi chim cất tiếng kêu là mở đầu cho Gió Mùa sắp tới từ tháng Tư đến tháng Mười. Tiếng chim như là biểu tượng âm thanh vui sống vỡ bờ làm vạn vật hồi sinh. Lời của Phật cũng như tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp con người hồi sinh và hạnh phúc từ sự ẩn nhẫn cam chịu khổ đau của dòng sống tạm bợ mà phải cột trói trong vòng duyên nghiệp trùng trùng. Dr. Satesh Pande, nhà sinh vật học chuyên khảo về những loài chim đã sưu tầm và mô tả hình ảnh cùng tiếng hót thanh thoát của loài chim Ka Lăng Tần Già (Kalavinka Sparrow). Nhưng loài hoa Hoa đạo và Chim Đạo chỉ nở được và hót được khi trái tim là cánh cửa không cài, mở rộng đón một bầu trời xanh.
Ít nhất đã có một lần trong đời, tôi đi tìm chim cú mới cảm nhận được tâm hồn mình nhuộm cú khi mãi miết đi tìm bóng cú giữa thiên nhiên bao la nhưng không có chỗ an trú cho mình vì chén trà “đương niệm hiện tiền” đã đầy ắp. Muốn rót thêm một giọt mới pha, cũng phải cần đổ lớp cũ ra thôi!
Mùa Phật Đản, mong hoa Mạn Đà La nở khắp lòng người và tiếng chim Ka Lăng Tần Già làm đượm tình người. Hoa phi hoa, điểu phi điểu… Chẳng phải là hoa, chẳng phải là chim mà chỉ có tiếng vọng trong ta mang suối nguồn hạnh phúc cho mình.
North Highlands, mùa Phật Đản 2554 – 2010
Trần Kiêm Đoàn
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã qua rồi
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Chánh niệm tỉnh giác đây
Tuệ tri quán vô lậu
Không động không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết ngày mai chết
Không ai điều đình được
Với bọn tử thần kia
Nhiệt tâm quyết tu tập
Đêm ngày không mỏi mệt
Xứng gọi nhất dạ hiền
Luôn luôn sống trầm lặng
(Trích Kinh Nhất dạ hiền giả thuộc Kinh Trung Bộ )
Đại ý: (6 câu đầu)
Ta hay than khổ là vì ta thường sống trong quá khứ mà quá khứ là cái không còn, là cái đã qua; hay mơ tưởng đến tương lai, mà tương lai là cái không thật, cái chưa đến. Sống với cái đã qua thì lúc vui, lúc buồn,nếu trọn thời gian đều là vui hết thì không có gì để nói (nhưng không vì có vui là phải có buồn, buồn-vui là đối đãi, là còn hai bên); còn mơ tưởng đến tương lai thì khi nó đến không như ý muốn thì khóc, buồn, khổ đau mà chưa bao giờ sống với hiện tại (sống với tâm bình thường, tâm bình thường là đạo). Hiện tại mới quyết định tương lai, sống với hiện tại và biết rõ những gì đang xảy ra. Thế thôi! Bởi vì tương lai cũng nằm trong hiện tại, hiện tại là nhân, còn tương lai là quả. Cho nên muốn cho tương lai tốt đẹp, thì ngay trong hiện tại ta phải sống an lành.
Danh hiệu Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM trong nhân loại ai cũng đều biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm nguy và ách nạn khủng khiếp.
- QUÁN-THẾ-ÂM Đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền.
- QUÁN-THẾ-ÂM Danh hiệu của tình thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cõi hư không.
- QUÁN-THẾ-ÂM gắn liền với tim óc của nhân loại, của muôn loài chúng sanh.
Với QUÁN-THẾ-ÂM nơi nào có khổ đau, nơi nào có tai nạn! Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN-THẾ-ÂM chí thành và tha thiết. Nơi đó có QUÁN-THẾ-ÂM . Nơi đó được giải trừ tất cả khổ đau và tai nạn!
Ý NGHĨA QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT
- QUÁN là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rõ ràng.
- THẾ là cõi đời, cỏi hữu tình thế gian.
- ÂM là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.
- BỒ-TÁT là độ thoát cho loài hữu tình, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có tình cảm được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.
Đức QUÁN-THẾ-ÂM BỒ TÁT, đạt được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cõi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy, nên gọi là QUÁN-THẾ-ÂM .
Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh điển còn gọi là QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT .
QUÁN-THẾ-ÂM Tiếng Phạn Avalokitesvara , nghĩa là, Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt đến với mọi loài, nói cách khác là tình yêu thương trìu mến vô biên gấp muôn vạn lòng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với đứa con cưng, nên gọi là Từ-mẫu Quán-thế-Âm.
QUÁN-THẾ-ÂM VÔ ÚY
Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn: “Bồ Tát đối với cấp nạn nguy hiểm, kinh sợ, còn ban cho chúng sanh năng lực Vô Úy để tự vượt thoát khổ ách”, nên gọi là Quán-Âm Vô-Úy.
SỰ TÍCH BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Đức Phật BỔN SƯ THÍCH CA khi nói kinh Bi-Hoa đã dạy rằng : – Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức Quán-Thế-Âm làm thái tử con của vua Vô-Tránh-Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo lý vô thượng, Vua và Thái-tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ-tát, mong thành Phật quả để phổ độ chúng sanh.
Khởi đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ LAI và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô-Tránh-Niệm chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ nguyện rộng lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật hiệu là A-Di-Đa, cõi Tây Phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng tròn đầy viên mãn cũng về cõi Cực-Lạc thành bậc đại Bồ Tát hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM cùng với Phật A-DI-ĐÀ tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực lạc.
CÔNG HẠNH BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM
Ngài Huyền-Trang pháp sư đời Đại Đường nói : “Quán Có, mà không trụ nơi Có. Không mà không trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm đối với Danh, thấy Tướng mà không chìm ở nơi Tướng. Tâm, không động ở Tâm. Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu đó, không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ NGẠI. Bồ tát Quán-Thế-Âm đã dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó mà tìm tiếng kêu của chúng sanh ứng hiện tới mà cứu khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu khổ mà sự cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của QUÁN-THẾ-ÂM là như thế.
Lại nữa, trong Nhị-Khóa-Hiệp-Giải viết rằng: “Quán, là Trí năng-quán, Thế-Âm, là Cảnh sở-quán. Muôn ngàn hình tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động, khác biệt, cách trở điệp điệp trùng trùng, do lòng từ rộng lớn vô biên của Ngài cùng một lúc đều được cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM .
Thái-Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp-Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán-Thế-Âm như sau : “Đức Quán-Thế-Âm tìm nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền ngay khi đó đến mà cứu độ, quả vị lợi tha vô lượng vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng-Ứng-Thân, Liệt-Ứng-Thân, Tha-Thọ-Dụng-Thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới.
Còn Đại-Thừa Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ Môn, toàn phẩm kinh Đức Thích Ca đã khuyên dạy chúng sinh trì tụng, lễ bái Quán-Thế-Âm thì được phước vô lượng. Về phương diện cứu khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân, mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn cho chúng sanh.
BA LỄ VÍA QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT GÌ HAY KHÔNG ?
Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ-tát Quán-Thế-Âm thật trang nghiêm vào các ngày : 19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch.Thiền môn nhật tụng cổ xưa đã ghi rõ :
- Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.
- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.
- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.